Ngày 11/8/2017 bạn Thùy Linh gửi bài toán. Đường cao BD của tam giác nhọn ABC bằng 6, đoạn thẳng AD bằng 5. a) Tính diện tích tam giác ABD.
1. Khái niệm Trực tâm. Nếu trong một tam giác, có ba đường cao giao nhau tại một điểm thì điểm đó được gọi là trực tâm. Điều này không phải dựa vào mắt thường, mà dựa vào dấu hiệu nhận biết. + Đối với tam giác nhọn: Trực tâm nằm ở miền trong tam giác đó
Giac Mo Tinh Yeu Tam Doan Nghe download tải lời bài hát Giấc Mơ Tình Yêu của nghệ sĩ Tâm Đoan mp3 320kbps lossless Chất lượng cao Miễn phí. Lời bài hát Giấc Mơ Tình Yêu. Có giấc mơ nào êm đềm, khẽ lướt qua làn môi mềm Lấp lánh như ngàn tia nắng, sưởi ấm cõi lòng em
Holo, tình yêu của tôi. 2020 57phút/tập. Đang phát: Hoàn Tất (12/12) Tập mới nhất: 12 11 10. Quốc gia: Hàn Quốc. Diễn viên: Chan Sung Choi Yeo Jin Jeong Do Won Kang Seung Hyeon Kim Hak Seon Kim Soo Jin Ko Sung Hee Lee Ki Chan Yoon Hyun Min. Thể loại: Chính kịch, Khoa Học, Tâm Lý, Tình Cảm, Viễn Tưởng.
4wEUlIz. MỖI NÚT LIKE TRÊN FANPAGE NEGE TEAM LÀ MỘT NGUỒN ĐỘNG LỰC CHO BỌN MÌNH CỐ GẮNG HƠN. Mọi người ơi hãy ủng hộ chúng mình bằng những cmt xinh xinh và những cái like thặc nà đáng yêu của mọi người nhé, để bọn mình được boost thêm sức mạnh cống hiến tiếp cho mọi người nhiều nhiều sản phẩm hay hơn nhe
Một trong những lý thuyết thú vị của tâm lý đề cập tới tình yêu là lý thuyết tam giác tình yêu A Triangular Theory of Love của R. Sternberg. Lý thuyết của ông cho rằng tình yêu được hình thành nên từ ba thành tố tạo nên một tam giác, đó làThân mật Intimacy là cảm giác gần gũi và gắn kết với đối phương. Đó là tình cảm gắn bó với người yêu, muốn làm cho cuộc sống của người yêu được tốt hơn. Chúng ta chân thành yêu mến họ và sung sướng khi họ ở bên cạnh chúng ta. Chúng ta tin rằng họ sẽ ở bên cạnh ta trong những giờ phút khó khăn và chúng ta luôn cố gắng bên cạnh họ khi họ gặp khó khăn. Chúng ta muốn chia sẻ với họ các vấn đề sinh hoạt hàng ngày, ý nghĩ, tình cảm và muốn có những hoạt động chung với họ. Trên thực tế những sở thích và những công việc chung có thể là một trong những yếu tố có tính chất quyết định biến các quan hệ thân thiết thành quan hệ tình yêu hoặc vợ mê Passion Khái niệm này thực chất là sự ham mê thể xác, sự hưng phấn và những hành vi tình dục trong các mối quan hệ. Các nhu cầu tình dục là quan trọng, song không phải là các nhu cầu duy nhất thúc đẩy con người say mê lẫn nhau. Ở một số trường hợp, sự gần gũi có trước sự đam mê; Ở những trường hợp khác sự đam mê có thể có trước sự gần gũi. Ngoài ra, có trường hợp có đam mê mà không có sự gần gũi hoặc có gần gũi mà không có sự đam nhiệm/Cam kết Commitment Yếu tố này có các khía cạnh ngắn hạn hoặc dài hạn. Ngắn hạn - đó là quyết định có yêu hoặc có nhận thức được tình yêu. Dài hạn - đó là nhận thức tầm quan trọng của việc giữ gìn tình yêu tìm kiếm sự cân bằng giữa nhu cầu sinh lý về tình dục và nhu cầu tinh thần về tình yêu là điều cần thiết, mối quan hệ thiếu hoàn toàn 3 yếu tố trên sẽ không tồn tại tình yêuBa góc của tam giác tình yêu kết nối với nhau bởi ba cạnh, tạo nên 8 hình thái tình yêu cơ bản, có loại tình cảm có một yếu tố, có loại tình cảm lại do hai hay nhiều yếu tố hòa quyện với nhau. Những trạng thái tình cảm này cũng có thể thay đổi, chuyển hóa trong từng mối quan hệ cụ bạn/ thích LikingLoại tình cảm này là chỉ có thành phần thân mật hay sự thích thú liking nhất thời, thiếu đam mê và những cam kết dài hạn trong tình yêu. Nhưng tình bạn có thể là gốc rễ của những hình thức tình cảm yêu mê đắm Infatuated loveLoại tình cảm này được mô tả chỉ bởi cảm giác hấp dẫn và đam mê về mặt thể xác mà không có sự thích thú và tận tâm. Tình yêu cuồng dại không có đủ thời gian cho những cảm xúc thân mật sâu sắc hơn để tiến đến những giai đoạn khác như tình yêu lãng mạn, hay tình yêu hoàn toàn trong giai đoạn mới bắt đầu mối quan hình thức khác của tình yêu chỉ có thể được phát triển khi giai đoạn mê đắm giảm bớt. Sự mê đắm ban đầu thường mãnh liệt đến mức mọi người có thể "mang theo một ngọn đuốc" cho đối phương, không cần biết liệu nó có cần cho một tình yêu bền vững, sâu sắc và lâu yêu trống rỗng Empty loveLoại tình cảm này chỉ có sự cam kết mà thiếu đi cảm xúc say mê và thân mật. Đôi khi, một tình yêu mãnh liệt có biển chuyến xấu đi và trở thứ thành tình yêu trống rỗng. Điều ngược lại cũng có thể xảy ra. Chẳng hạn, một cuộc hôn nhân sắp đặt có thể bắt đầu trống rỗng nhưng sau đó lại phát sinh và nảy nở thành một dạng tình cảm khác của tình yêu theo thời gian. Tình yêu lãng mạn Romantic loveTình yêu lãng mạn gắn kết tình cảm con người thông qua sự thân mật và đam mê thể xác. Đối tác trong mối quan hệ kiểu này có những cuộc trò chuyện sâu sắc giúp họ biết chi tiết hơn về nhau. Họ tận hưởng một niềm đam mê tình dục và tình cảm. Những cặp đôi này có thể đang ở thời điểm mà các cam kết dài hạn hoặc các kế hoạch trong tương lai vẫn chưa được quyết nghĩa Companionate LoveĐây là một loại tình yêu thân mật, nhưng không nồng nàn. Thành phần thân mật và thành phần cam kết của tam giác tạo nên tình yêu bạn đồng hành. Nó mạnh hơn tình bạn vì có sự cam kết lâu dài. Có ít hoặc không có ham muốn tình dục. Điều này thường được tìm thấy trong các cuộc hôn nhân nơi niềm đam mê đã chết, nhưng cặp đôi vẫn tiếp tục có tình cảm sâu đậm hoặc mối quan hệ bền chặt với nhau. Đây cũng có thể được xem là tình yêu giữa những người bạn rất thân và các thành viên trong gia yêu khờ dại Fatuous loveTrong loại tình yêu này, sự cam kết và đam mê có mặt trong khi không có sự thân mật hay thích thú. Tình yêu ban đầu xảy ra bởi một cuộc tán tỉnh, ve vãn chóng vánh và họ kết hôn ngay sau đó, khi niềm đam mê thúc đẩy một cam kết mà chưa có sự thân mật, gần gũi, gắn bó với nhau đủ nhiều. Thông thường, việc chứng kiến điều này khiến người ngoài nhìn vào rất bối rối khi vì sao cặp đôi này có thể đẩy tiến độ nhanh như vậy. Thật không may, những cuộc hôn nhân như thế thường không diễn ra một cách suôn sẻ và nếu họ kết hôn, thì chủ yếu là do "may mắn" mà thôiTình yêu trọn vẹn/ lý tưởng Consummate loveTình yêu hoàn hảo được tạo thành từ cả ba thành tố và là hình thức tổng thể của tình yêu. Nó đại diện cho một mối quan hệ lý tưởng. Các cặp đôi trải qua loại tình yêu này thường trải qua những cung bậc cảm xúc tuyệt vời về mặt thể xác trong nhiều năm trong mối quan hệ của họ. Họ không thể tưởng tượng mình với bất cứ ai khác ngoài kia. Họ cũng thấy mình không thực sự hạnh phúc khi không có người bạn đời hoàn hảo ấy bên cạnh. Họ luôn cố gắng để vượt qua những bất đồng và cùng nhau đối mặt với các vấn đề gây căng có tình yêu Non loveKhi không có sự có mặt của cả ba thành tố trên thì tình yêu sẽ không được hình thành. Đây là đặc trưng cho phần lớn các mối quan hệ cá nhân bao gồm những tương tác thông thường không tham gia vào tình liệu tham khảoRobert J. Sternberg 1986, A Triangular Theory of Love.
Tại sao nhân loại lại có tình yêu? Tại sao có một số dạng tình yêu bền lâu và có loại lại chỉ thoáng qua? Các nhà nghiên cứu và các nhà tâm lý học đã đặt ra một số học thuyết khác nhau về tình yêu để giải thích sự hình thành và kéo dài của phạm trù này. Why do people fall in love? Why are some forms of love so lasting and others so fleeting? Psychologists and researchers have proposed several different theories of love to explain how love forms and endures. Nguồn Author Love Yêu là cảm xúc cơ bản của con người, nhưng hiểu được cách xuất hiện và lý do nó xuất hiện không phải lúc nào cũng dễ dàng. Trong thực tế, có một thời gian khá dài, nhiều người cho rằng tình yêu đơn giản là một thứ quá đỗi nguyên thủy, bí ẩn và nhuốm màu tâm linh, nên khoa học chẳng thể nào hiểu được cặn kẽ. Love is a basic human emotion, but understanding how and why it happens is not necessarily easy. In fact, for a long time, many people suggested that love was simply something too primal, mysterious, and spiritual for science to ever fully understand. Sau đây là bốn học thuyết lớn được đặt ra để giải thích tình yêu và những mối gắn bó khác về cảm xúc. The following are four of the major theories proposed to explain love and other emotional attachments. Thích và Yêu. Liking vs. Loving Nhà tâm lý học Zick Rubin cho rằng tình yêu đôi lứa được hình thành từ 3 thành tố Psychologist Zick Rubin proposed that romantic love is made up of three elements – Sự gắn bó. Attachment – Sự quan tâm. Caring – Sự gần gũi. Intimacy Rubin tin rằng có đôi khi chúng ta cảm thấy coi trọng và ngưỡng mộ ai đó thật nhiều. Ta tận hưởng thời gian bên họ và muốn ở quanh họ, nhưng điều này không phải lúc nào cũng là yêu. Thay vào đó, Rubin gọi đây là Thích. Yêu, ngược lại, sâu sắc hơn, đậm đà hơn và chứa đựng một ham muốn tiếp xúc và chung đụng cơ thể một cách mãnh liệt. Những người đang “thích” nhau đơn giản là thích ở bên cạnh người kia, còn những người đang “yêu”, họ quan tâm nhiều đến nhu cầu của đối phương chẳng kém gì nhu cầu của bản thân. Rubin believed that sometimes we experience a great amount of appreciation and admiration for others. We enjoy spending time with them and want to be around them, but this doesn’t necessarily qualify as love. Instead, Rubin referred to this as liking. Love, on the other hand, is much deeper, more intense, and includes a strong desire for physical intimacy and contact. People who are “in like” enjoy each other’s company, while those who are “in love” care as much about the other person’s needs as they do their own. Gắn bó là nhu cầu nhận được sự quan tâm, chấp thuận, và tiếp xúc cơ thể với người kia. Quan tâm là coi trọng nhu cầu và niềm hạnh phúc của người kia không kém gì bản thân mình. Sự gần gũi thân mật là chia sẻ suy nghĩ, ước muốn, và cảm xúc với đối phương. Attachment is the need to receive care, approval, and physical contact with the other person. Caring involves valuing the other person needs and happiness as much as your own. Intimacy refers to the sharing of thoughts, desires, and feelings with the other person. Dựa trên định nghĩa này, Rubin sáng tạo ra một bảng hỏi để đánh giá thái độ của một người về người kia và phát hiện ra những câu hỏi thang đo về yêu và thích này giúp ông củng cố những quan niệm của mình về tình yêu. Based upon this definition, Rubin devised a questionnaire to assess attitudes about others and found that these scales of liking and loving provided support for his conception of love. Khi bạn thích ai đó, bạn không ngừng trêu chọc họ. Nhưng khi bạn yêu người ấy, bạn sẽ chăm sóc và ngưng trêu chọc họ. Nguồn YourQuote Tình yêu Đồng hành với Tình yêu Đam mê. Compassionate vs. Passionate Love Nguồn Pinterest Theo nhà tâm lý học Elaine Hatfield và cộng sự của bà, có 2 kiểu tình yêu According to psychologist Elaine Hatfield and her colleagues, there are two basic types of love – Tình yêu đồng hành. Compassionate love – Tình yêu đam mê. Passionate love Tình yêu đồng hành được định hình bởi sự tôn trọng lẫn nhau, sự gắn bó, yêu thương và tin tưởng. Tình yêu đồng hành thường hình thành từ cảm giác thấu hiểu và tôn trọng lẫn nhau. Compassionate love is characterized by mutual respect, attachment, affection, and trust. Compassionate love usually develops out of feelings of mutual understanding and shared respect for one another. Tình yêu đam mê được định hình bởi những cảm xúc mãnh liệt, thu hút về mặt tình dục, nỗi lo âu và tình yêu thương. Khi những cảm xúc mãnh liệt được đối phương đáp lại, con người ta cảm thấy mình phấn chấn và thỏa mãn. Tình yêu này nếu không được đáp lại sẽ đưa đến cảm xúc thất vọng và chán nản. Hatfield cho rằng tình yêu đam mê chỉ tồn tại ngắn ngủi, thường là từ 06 đến 30 tháng. Passionate love is characterized by intense emotions, sexual attraction, anxiety, and affection. When these intense emotions are reciprocated, people feel elated and fulfilled. Unreciprocated love leads to feelings of despondency and despair. Hatfield suggests that passionate love is transitory, usually lasting between 6 and 30 months. Hatfield cũng cho rằng tình yêu đam mê xuất hiện khi những mong đợi về văn hóa thúc đẩy con người ta phải lòng nhau, khi một người gặp được một người tình theo đúng lý tưởng sẵn có của mình, và khi bạn cảm thấy bị kích thích mãnh liệt về cơ thể với người kia. Hatfield also suggests that passionate love arises when cultural expectations encourage falling in love, when the person meets your preconceived ideas of an ideal love, and when you experience heightened physiological arousal in the presence of the other person. Lý tưởng mà nói, tình yêu đam mê sau đó sẽ thường chuyển biến thành tình yêu đồng hành bền chặt hơn. Mặc dù hầu hết mọi người đều muốn có được những mối quan hệ vừa an toàn, vừa có sự ổn định của tình yêu đồng hành lại vừa có sự mãnh liệt của tình yêu đam mê, nhưng Hatfield tin rằng sự kết hợp này là khá hiếm gặp. Ideally, passionate love then leads to compassionate love, which is far more enduring. While most people desire relationships that combine the security and stability of compassionate with intense passionate love, Hatfield believes that this is rare. Bánh xe màu sắc tình yêu. The Color Wheel Model of Love Nguồn Hugh Fox III Trong cuốn sách “Màu sắc tình yêu” xuất bản năm 1973 của mình, nhà tâm lý học John Lee so sánh các kiểu tình yêu như một bánh xe màu sắc. Cũng giống như màu sắc có ba tông cơ bản thì Lee cho rằng tình yêu cũng có 3 “tông” chính. Ba “tông” này là In his 1973 book The Colors of Love, psychologist John Lee compared styles of love to the color wheel. Just as there are three primary colors, Lee suggested that there are three primary styles of love. These three styles of love are – Yêu nồng nàn Từ Eros xuất phát từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là “đam mê” hay “gợi tình.” Lee cho rằng kiểu tình yêu này vừa có sự đam mê về thể xác và cảm xúc. Eros The term eros stems from the Greek word meaning “passionate” or “erotic.” Lee suggested that this type of love involves both physical and emotional passion. – Yêu bỡn cợt Ludos theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là “trò chơi.” Kiểu tình yêu này thường như kiểu đùa vui, bỡn cợt, không phải lúc nào cũng nghiêm túc. Những người có kiểu yêu này thường không sẵn sàng cam kết bất kỳ điều gì và luôn cảnh giác khi thấy sự gần gũi tiến đi quá xa. Ludos Ludos comes from the Greek word meaning “game.” This form of love is conceived as playful and fun, but not necessarily serious. Those who exhibit this form of love are not ready for commitment and are wary of too much intimacy. – Yêu trong sáng Storge trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “tình yêu thương tự nhiên.” Dạng tình yêu này thường đại diện bởi tình yêu thương gia đình, giữa cha mẹ và con cái, anh chị em, và những người trong dòng họ. Dạng tình yêu này có thể cũng hình thành từ tình bạn giữa những người có chung mối quan tâm và cam kết, từ đây họ dần hình thành tình yêu thương với người kia. Storge Storge stems from the Greek term meaning “natural affection.” This form of love is often represented by familial love between parents and children, siblings, and extended family members. This type of love can also develop out of friendship where people who share interests and commitments gradually develop affection for one another. Cứ tiếp tục suy luận theo bánh xe tình yêu màu sắc này, Lee cho rằng các tông màu cơ bản có thể kết hợp với nhau để tạo ra những màu khác, ba kiểu tình yêu cơ bản này có thể hợp lại để tạo ra 9 kiểu tình yêu thứ cấp khác. Ví dụ, kết hợp Tình Yêu Nồng Nàn và Tình Yêu Bỡn Cợt ta sẽ có Tình Yêu Ám Ảnh. Continuing the color wheel analogy, Lee proposed that just as the primary colors can be combined to create complementary colors, these three primary styles of love could be combined to create nine different secondary love styles. For example, combining Eros and Ludos results in mania or obsessive love. 3 kiểu chính Three primary styles Yêu Nồng Nàn – Yêu một người đúng lý tưởng. Eros –Loving an ideal person Yêu Bỡn Cợt – Tình yêu như một trò chơi. Ludos – Love as a game Yêu Trong Sáng – Tình yêu như tình bạn. Storge – Love as friendship 3 kiểu thứ cấp Three secondary styles Yêu Ám Ảnh Yêu Nồng Nàn + Yêu Bỡn Cợt – Luôn bị tình yêu ám ảnh. Mania Eros + Ludos – Obsessive love Yêu Thực Dụng Yêu Bỡn Cợt + Yêu Trong Sáng – tình yêu mang tính thực tế và thực dụng. Pragma Ludos + Storge – Realistic and practical love Yêu vị tha Yêu Nồng Nàn + Yêu Trong Sáng – Một tình yêu không màng đến bản thân mình. Agape Eros + Storge – Selfless love Học thuyết tam giác tình yêu. Triangular Theory of Love Nguồn Pinterest Nhà tâm lý học Robert Sternberg đưa ra học thuyết Tam giác tình yêu, phát biểu rằng tình yêu có 3 thành tố Psychologist Robert Sternberg proposed a triangular theory suggesting that there are three components of love – Gần gũi. Intimacy – Đam mê. Passion – Cam kết. Commitment Những sự kết hợp của 3 thành tố này sẽ tạo ra những dạng thức tình yêu khác nhau. Ví dụ, kết hợp Gần Gũi và Cam Kết sẽ tạo ra tình yêu đồng hành, kết hợp Đam Mê và Gần Gũi sẽ cho ra tình yêu lãng mạn. Different combinations of these three components result in different types of love. For example, combining intimacy and commitment results in companionate love, while combining passion and intimacy leads to romantic love. Theo Sternberg, các mối quan hệ xây dựng dựa từ 2 thành tố trở lên sẽ dài lâu hơn những mối quan hệ chỉ dựa trên một thành tố. Sternberg sử dụng thuật ngữ tình yêu trọn vẹn để mô tả sự kết hợp giữa Đam Mê, Gần Gũi và Cam Kết. Mặc dù dạng tình yêu này là mạnh mẽ và bền lâu nhất nhưng Sternberg cũng cho rằng loại tình yêu này vô cùng hiếm. According to Sternberg, relationships built on two or more elements are more enduring than those based on a single component. Sternberg uses the term consummate love to describe combining intimacy, passion, and commitment. While this type of love is the strongest and most enduring, Sternberg suggests that this type of love is rare. Tham khảo. View Article Sources Hatfield, E., & Rapson, R. L. Love, sex, and intimacy Their psychology, biology, and history. New York HarperCollins; 1993. Lee, The Colors of Love. New York Prentice-Hall; 1976. Rubin, Z. “Measurement of romantic love.” Journal of Personality and Social Psychology, 1970, 16 265-273. Sternberg, The Triangle of Love Intimacy, Passion, Commitment. New York Basic Books; 1988. Nguồn Như Trang.
[ ] Có thể đọc tiêu đề bạn nghĩ đến Mình nhìn người ấy, người ấy nhìn người kia. Ôi tình yêu tam giác, thật là chua và chát. À không phải vậy, bài viết này mình giới thiệu đến các bạn một học thuyết rất hay trong tâm lý về tình yêu. Người ta thường hỏi tình yêu là gì? Đây là câu hỏi không có câu trả lời dễ dàng. Khi nói về tình yêu, mỗi người trong chúng ta nhìn nhận nó dưới một góc độ khác nhau. Đó có thể là hấp dẫn về ngoại hình, một mối tình lãng mạn hay là những lời cam kết lâu dài với nhau. Nhà tâm lý Robert Sternberg đã đưa ra một học thuyết là “tam giác tình yêu”. Theo ông, tình yêu bao gồm ba thành phần chính 1. Đam mê passion là sự lôi cuốn và hấp dẫn về ngoại hình, thể xác của nhau, là cảm giác thích thú khi được cùng nhau làm điều gì đó. Chúng kéo hai người xa lạ vượt qua sự ngăn cách ban đầu để đến lại gần với nhau. 2. Thân mật intimacy là cảm giác gần gũi và gắn kết với người kia. Sự thân mật thường hình thành dựa trên những đặc điểm có chung hay sự thân thuộc của hai người có với nhau. 3. Cam kết commitment nếu đam mê và thân mật thường diễn ra một cách tự nhiên thì cam kết là một quyết định đưa ra một cách có ý thức. Cam kết ở đây có 3 dạng là cam kết làm hay cho người kia điều gì, cam kết chung thủy hay thái độ nỗ lực hết mình để hỗ trợ người kia. Dựa trên đó, ông đưa ra 8 loại tình yêu được kết hợp bởi các thành phần trên, có thể là tình yêu chỉ có một thành phần, có thể là có cả hai hay tình yêu trọn vẹn nhất là có đủ cả 3 thành phần. I. Tình yêu đầu tiên là không có tình yêu Tức là không có bất kỳ thành phần nào trong 3 thành phần trên. Đây là loại tinh cảm thường giữa 2 người xa lạ hoặc khi cả hai người không còn mối liên kết nào sau khi tan vỡ một mối quan hệ. II. Tình yêu chỉ có một thành phần 1. Thích đây là tình yêu chỉ có Thân mật, tình yêu ở dạng này là cảm kết gần gũi và tin tưởng lẫn nhau. Điển hình của loại tình yêu này là tình bạn, chúng thiếu đam mê và cam kết dài hạn với nhau. 2. Tình yêu cuồng dại đây là tình yêu chỉ có Đam mê, nó được hình thành dựa trên sự hấp dẫn ngoại hình hay thể xác của nhau. Đây là loại tình yêu thường diễn ra trong giai đoạn đầu của mối quan hệ. Người ta hay còn gọi nó là “yêu từ cái nhìn đầu tiên”. Nếu không phát triển hai thành phần còn lại thì tình yêu này thường như một cơn gió thoáng qua, nó đến nhanh và cũng đi vội vàng. 3. Tình yêu trống rỗng tình yêu này chỉ có mỗi Cam kết. Nó thường được hình thành trong các cuộc hôn nhân được sắp đặt sẵn hay trong các mối quan hệ lâu dài đã dần mất đi sự thân mật và đam mê. III. Tình yêu có hai thành phần 1. Tình yêu lãng mạn Đam mê + Thân mật đây là tình yêu có sự hiện diện của hấp dẫn về thể xác và cảm giác gần gũi, tin tưởng với nhau. Một cặp đôi có tình yêu dạng này thường bị cuốn hút bởi ngoại hình người kia, đồng thời cảm thấy như là một đôi bạn thân và thích dành thời gian cho nhau. Vì tình yêu lãng mạn thiếu Cam kết cho nên chúng thường phổ biến ở tuổi teen và những bạn trẻ mới lớn. 2. Tình bầu bạn Thân mật + Cam kết đây là tình yêu có sự cam kết và gần gũi giữa cả hai nhưng lại thiếu đi sự cuốn hút về thể xác. Tình yêu này thường thấy trong cái mối quan hệ lâu dài như những hôn nhân đã vài chục năm, lúc này Đam mê đã dần biến mất, nhưng cả hai vẫn có những cảm xúc sâu sắc và cam kết chung thủy với nhau. Tình bầu bạn thường kéo dài và có thể cho ta một mối quan hệ rất đáng giá. 3. Tình yêu dại khờ Đam mê + Cam kết tình yêu này dù rất cuồng nhiệt và có cam kết với nhau, nhưng lại thiếu đi sự thấu hiểu và thân mật với nhau. Tình yêu này thường có khi hai người bị hấp dẫn về nhau một cách nhanh chóng, và sau đó đưa ra cam kết với nhau dù cho chưa thật sự hiểu rõ về người kia. Các mối quan hệ chỉ diễn ra trong thời gian ngắn rồi đi đến kết hôn ngay thường là loại tình yêu này. IV. Tình yêu có cả ba thành phần, hay còn gọi là tình yêu trọn vẹn Tình yêu trọn vẹn Đam mê + Thân mật + Cam kết tình yêu này có đầy đủ cả ba thành phần và thường tạo nên một mối quan hệ đẹp và toàn vẹn nhất. Không thật sự khó để đạt được loại tình yêu này mà cái khó là làm sao để giữ cho tình yêu của chúng ta luôn được trọn vẹn dù bao nhiêu năm đã qua. Trong bài viết này, ad Kiri đã giới thiệu với các bạn một học thuyết vô cùng nổi tiếng về tình yêu. Phần 2 mình sẽ nói thêm về những khó khăn trong việc giữ một tình yêu trọn vẹn và cách để duy trì từng thành phần ở trên. Ad Kiri About The Author Kiri More from this Author Kiri tốt nghiệp ngành Tâm Lý Học của trường Murdoch Úc, type MBTI của Kiri là INTP - hay được gọi là 'Kẻ lý tính lười biếng' the lazy rational do thích suy nghĩ mà hông thích làm.
tam giac tinh yeu