Ảnh: TTXVN. Tại buổi tiếp, Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn khẳng định Việt Nam sẽ tiếp tục là một thành viên tích cực, có trách nhiệm và thực hiện các cam kết quốc tế của mình để đóng góp thực chất và hiệu quả hơn nữa vào công việc chung của UNESCO. Việt Nam sẽ ứng Họ cũng biết rằng một năm có 365 ngày, 6 tiếng, và 11 phút, chỉ sai khác hơn 1 phút so với hiểu biết hiện tại của chúng ta (365 ngày 6 tiếng 10 phút). Họ còn biết sự sắp xếp của các hành tinh trong hệ Mặt trời và một số vệ tinh/mặt trăng của chúng. Để có thể biết được điều đó, chắc chắn họ cần phải sử dụng đến kính thiên văn. Theo một bài viết trên trang mạng washingtonexaminer.com (Mỹ) ngày 11/10, Việt Nam là một trong số quốc gia thực hiện xóa đói giảm nghèo hiệu quả, đạt nhiều thành tựu kinh tế nhờ áp dụng quyền sở hữu tư nhân và cải cách nền kinh tế thị trường. Đất nước trở nên hỗn loạn. - Từ 1978 đến nay, đất nước bước vào cải cách, mở cửa. * 12-1978, Trung Quốc đề ra đường lối đổi mới, chủ trương xây dựng CNXH mang màu sắc Trung Quốc, lấy phát triển kinh tế làm trung tâm, thực hiện cải cách mở cửa. + Kinh tế phát Có 3 tiền đề : a. Giá trị truyền thống dân tộc: Lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời đã hình thành nên những giá trị truyền thống hết sức đặc sắc và cao quý của dân tộc VN, trở thành tiền đề tư tưởng - lý luận xuất phát hình thành tư tưởng HCM. - Đó là Thành tựu Giáo dục và Thách thức trong Tương lai Tóm tắt báo cáo Những thành công của Việt Nam trong tiếp cận giáo dục phổ thông1 và nâng cao kết quả học tập đã để lại ấn tượng với các nhà hoạch định chính sách giáo dục trên toàn thế giới. 3Vr3T. Kể từ thuở khai thiên lập địa, con người đã không ngừng quan sát bầu trời để nắm bắt các quy luật tự nhiên rồi vận dụng vào cuộc sống lao động hằng ngày. Kiến thức về vũ trụ của con người cho đến này đã đạt trình độ nhất định và ngày càng mở rộng. Đó là nhờ rất nhiều nỗ lực nghiên cứu của các nhà thiên văn học trong lịch sử. Hôm nay, hãy cùng chúng tớ “điểm danh” 10 tên tuổi lỗi lạc nhất trong ngành Thiên văn từ trước tới nay nhé! 1. Charles Messier Ông là một nhà thiên văn nổi tiếng người Pháp, từng bị ám ảnh bởi việc phát hiện, nghiên cứu sao chổi và quỹ đạo của chúng. Tuy nhiên, công việc nghiên cứu sao chổi là rất khó nên ông đi đến quyết định lập ra danh mục các thiên thể trong vũ trụ. Danh mục này đã giúp đỡ ông và những người săn sao chổi phân biệt được các thiên thể thường trực những ngôi sao và thiên thể di chuyển thoáng qua sao chổi khi quan sát bằng mắt thường. Charles Messier có niềm đam mê rất lớn đối với sao chổi. Danh mục kết quả được xuất bản năm 1774 khi nhà thiên văn học 44 tuổi, đã khám phá hơn 100 thiên thể hiện này vẫn gọi là các thiên thể Messier, bao gồm cả những tinh vân và thiên hà. Cùng với việc liệt kê danh mục này, Messier cũng thành công trong việc phát hiện ra sao chổi thứ mười ba. 2. Ptolemy Danh nhân Ai Cập cổ gốc Hy Lạp Ptolemy sống vào năm 90 đến 168 sau Công nguyên, là nhà thiên văn học lớn cuối cùng trước khi Thế giới chuyển sang giai đoạn Dark Ages thời kỳ không có thành tựu lớn về khoa học. Với hiểu biết sâu rộng về thiên văn học, địa lý, toán học, các phát hiện của ông đã đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của Khoa học ngày nay. Có thể nói, Ptolemy là người đặt nền tảng cho rất nhiều nghiên cứu thiên văn học sau này của nhân loại. Các quan điểm của ông về cấu trúc Thế giới đã làm nền tảng cho thuyết địa tâm trong nhiều thế kỷ, một học thuyết mà đến đời Nicolaus Copernicus mới bị đánh đổ. Ptolemy cũng là tác giả của sơ đồ chuyển động các thiên thể. Dựa vào sơ đồ của ông, con người có thể biết được vị trí các hành tinh trong Hệ Mặt Trời, vị trí các ngôi sao cũng như thời gian diễn ra Nhật thực, Nguyệt thực... Nếu không nhờ sự nghiên cứu và những tiến bộ của ông trong lĩnh vực thiên văn học thì phần lớn thành tựu thiên văn trong thời kỳ Phục hưng và cách mạng khoa học khó mà đạt được. 3. Tycho Brahe Tycho Brahe 1546 -1601 là nhà thiên văn học, chiêm tinh học người Đan Mạch, được coi là cha đẻ môn thiên văn quan sát trước khi có kính viễn vọng. Ngày 11/11/1572, Tycho Brahe khám phá ra một ngôi sao mới trong chòm sao Cassiopeia có độ sáng bằng sao Kim. Tycho Brahe gọi nó là "nova, nova" sao mới, sao mới. Ngày nay, người ta gọi loại sao đó là supernova siêu tân tinh loại 1. Vào thời mà Tycho sống, người ta cho rằng các loại sao kể trên nằm trong bầu khí quyển của Trái Đất nhưng ông bác bỏ quan điểm đó. Năm 1573, Tycho Brahe xuất bản một quyển sách mang tên De nova stella các tân tinh và cũng từ đó, “nova” được dùng để chỉ một ngôi sao đột nhiên sáng chói lên. Xuyên suốt thời gian quan sát của mình, Tycho Brahe tìm ra ngôi sao mới thuộc chòm sao Cassiopeia nổi tiếng. Tycho Brahe thực hiện việc quan sát thiên văn rất tỉ mỉ. Ông thường cẩn thận giữ gìn các dữ liệu quan sát của mình nên được các đồng nghiệp đương thời coi là một nhà quan sát thiên văn chính xác nhất thời đó. Công trình chính của Tycho Brahe là phát hiện ra sao chổi C/1577 V1. Căn cứ trên các quan sát của mình, Tycho Brahe đã chứng minh nó không nằm trong bầu khí quyển của Trái Đất như quan niệm thời đó. Nó vẽ ra một quỹ đạo ê-lip quanh Mặt Trời, phía bên kia Mặt Trăng, cắt các quỹ đạo của các hành tinh khác. 4. Arno Allan Penzias và Robert Wilson Hai nhân vật tiếp theo của chúng ta là bộ đôi nhà vật lý Arno Allan Penzias và Robert Wilson. Tuy nhiên, họ vẫn được vinh danh trong danh sách này nhờ những đóng góp to lớn của mình. Arno Allan Penzias làm việc cùng Robert Woodrow Wilson ở trung tâm nghiên cứu Bell Labs tại New Jersey với máy thu vi sóng cryogen ở nhiệt độ siêu thấp khoảng 123 độ K có độ nhạy cao dùng cho quan sát thiên văn vô tuyến. Năm 1964, hai ông phát hiện sóng nhiễu tần số cao mà không thể giải thích nguồn gốc. Sóng nhiễu đó mang năng lượng rất thấp so với bức xạ xuất phát từ Ngân Hà. Không những thế, nó còn có cùng tính chất ở tất cả các hướng. Penzias và Wilson cho rằng dụng cụ làm việc của mình có lẽ đã bị nhiễu do một nguồn phát sóng nào đó trên Trái Đất. Cặp bài trùng Arno Allan Penzias và Robert Wilson. Sau khi đã loại trừ tất cả các khả năng gây nhiễu khác, họ công bố khám phá của mình. Về sau, nguồn sóng nhiễu này được xác định là bức xạ tự nhiên của nền vũ trụ, được hình thành từ vụ nổ Big Bang và tồn tại như bức xạ tàn dư. Khám phá này đã khẳng định lý thuyết về Big Bang, làm thay đổi nhiều giả thuyết về sự hình thành vũ trụ. Penzias và Wilson nhận giải Henry Draper Medal năm 1977 và sau đó một năm là Giải Nobel vật lý. 5. Nicolaus Copernicus Nicolaus Copernicus 19/2/1473 – 24/5/1543 là nhà thiên văn học đã nêu ra hình thức hiện đại đầu tiên của thuyết nhật tâm Mặt Trời ở trung tâm trong cuốn sách mang tính mở đầu một kỷ nguyên của mình. Trong đó, ông đề cập về sự chuyển động quay của các thiên thể. Copernicus là một trong những học giả có hiểu biết về nhiều phương diện ở thời mình. Ông là một nhà toán học, thiên văn học, luật gia, nhà tâm lý học, học giả kinh điển, nhà cai trị, viên chức hành chính, nhà ngoại giao, nhà kinh tế, và cả một người lính. Trong số những khả năng của mình, ông đã lựa chọn thiên văn học làm nghề nghiệp chính. Lúc còn sống, Nicolaus Copernicus được coi là kẻ báng bổ khi đưa ra thuyết nhật tâm, ngược lại với những điều giáo huấn của Nhà thờ. Vào thời kỳ đó, Nhà thờ là cơ quan nắm hầu hết các quyền lực trong mọi hoạt động xã hội, bao gồm cả việc giáo dục Sự phát triển thuyết nhật tâm Mặt Trời ở trung tâm chứ không phải Trái Đất của ông được coi là giả thuyết khoa học quan trọng nhất trong lịch sử. Nó đánh dấu bước chuyển tiếp sang thiên văn học hiện đại và sau đó là khoa học hiện đại. Điều này đã khuyến khích các nhà thiên văn trẻ, các nhà khoa học và các học giả có thái độ đúng mực hơn với những giáo điều đã tồn tại từ trước. Trong đêm trường Trung Cổ dài đằng đẵng cả ngàn năm, thiên văn học giậm chân tại chỗ. Hồi giáo ra đời và bành trướng sau thế kỷ thứ bảy đã tạo tiền đề cho văn hóa Do Thái và Ả Rập nở rộ. Hai nền văn hóa này đã bảo tồn, dịch thuật, và bổ sung các ý tưởng thiên văn của người Hy Lạp. Nhiều ngôi sao sáng trên bầu trời ngày nay được đặt những cái tên Ả rập, và nhiều thuật ngữ thiên văn cũng có gốc Ả Rập, như zenith thiên đỉnh. Khi văn minh châu Âu bắt đầu trỗi dậy sau đêm dài tăm tối, việc buôn bán với các nước Ả Rập đã tạo điều kiện cho châu Âu tái khám phá các tài liệu cổ đại như Almagest, và đánh thức lại niềm say mê thiên văn. Thời phục hưng của thiên văn học được ghi dấu bởi công trình của Copernicus. Ý tưởng đột phát của Nicolaus Copernicus Một trong những sự kiện quan trọng nhất thời kỳ Phục Hưng đó là sự loại bỏ thuyết Địa tâm. Đây là một cuộc cách mạng tri thức do một thầy tu người Ba Lan khởi xướng vào thế kỷ thứ 16. Nicolaus Copernicus sinh tại Torun, một thị trấn khiêm tốn bên dong Vistula. Ông học luật và y, nhưng lại đam mê thiên văn và toán học. Đóng góp lớn nhất của ông cho khoa học đó là việc khởi sự đánh giá lại các lý thuyết đương thời về chuyển động của hành tinh, và phát triển thuyết Nhật tâm. Copernucus kết luận rằng Trái Đất là một hành tinh, và mọi hành tinh đều xoay quanh Mặt Trời. Chỉ có Mặt Trăng là xoay quanh Trái Đất. Copernicus giải thích chi tiết những suy nghĩ của ông trong cuốn De Revolutionibus Orbium Coelestium Bàn về Quỹ đạo của các thiên thể, xuất bản năm 1543, cũng là năm ông tạ thế. Lúc ấy, hệ thống Ptolemaic cần những điều chỉnh quan trọng để có thể dự đoán được vị trí chính xác của các hành tinh. Copernicus muốn phát triển một lý thuyết hoàn thiện hơn để tính toán vị trí các hành tinh, nhưng khi bắt tay vào công việc đó, ông đã bị các định kiến truyền thống níu chân. Ông bắt đầu với những giả thuyết phổ biến đương thời, chẳng hạn như ý tưởng cho rằng chuyển động của các thiên thể nhất định phải là những đường tròn. Nhưng ông không giả định như mọi người vẫn làm rằng Trái Đất phải nằm ở trung tâm vũ trụ, và ông bảo vệ thuyết nhật tâm, tin rằng nó thuyết phục hơn. Những ý tưởng của ông chỉ bắt đầu được chấp nhận sau hơn một thế kỷ kể từ ngày ông qua đời, nhưng chúng đã gây bão trong giới học giả, và cuối cùng đã tác động mạnh mẽ đến tiến trình của lịch sử. Tượng Copernicus đặt tại thành phố Krakow, Ba Lan Một trong những phản biện mạnh mẽ nhất đối với thuyết nhật tâm đó là nếu Trái Đất chuyển động thì tại sao con ngời lại không cảm thấy gì. Nếu Trái Đất chuyển động, thì các vật thể trên bề mặt của nó hiển nhiên sẽ phải bị hất văng đi, và nếu Trái Đất chuyển động thì thả quả bóng xuống nó sẽ không thể nào chạm đất Nhưng một người khi đang di chuyển không nhất thiết sẽ nhận ra sự chuyển động của mình. Chẳng hạn như khi ngồi trên tàu xe nhìn ra cửa sổ và bạn thấy những chiếc xe khác như đang di chuyển, nhưng thật ra chính bạn mới là người đang di chuyển. Copernicus cho rằng dù Trái Đất xoay quanh Mặt Trời, hay Mặt Trời xoay quanh Trái Đất, thì người quan sát trên mặt đất cũng vẫn trông thấy cùng một chuyển động biểu kiến của Mặt Trời. Ông lý luận rằng hành trình di chuyển của Mặt Trời trên bầu trời mà mắt người nhìn thấy hoàn toàn có thể giải thích nếu giả định rằng Trái Đất xoay tròn còn bầu trời đứng yên. Đối với phản biện nói rằng nếu Trái Đất xoay tròn thì mọi thứ trên bề mặt phải bị hất văng đi, Copernicus trả lời rằng nếu Trái Đất bị xé toạc khi chuyển động như vậy, thì cả thiên cầu, tức là cả bầu trời, to lớn hơn và chuyển động nhanh hơn như quan niệm theo thuyết địa tâm, cũng phải bị xé toạc như thế và còn mãnh liệt hơn. Tìm hiểu Thiên Văn HọcPhân biệt chiêm tinh học và thiên văn họcNhững thành tựu của thiên văn Hy Lạp cổ đại Thuyết nhật tâm Trọng tâm trong cuốn De Revolutionibus, Copernicus khẳng định rằng Trái Đất chỉ là một trong sáu hành tinh được biết tới lúc đó xoay quanh Mặt Trời. Với ý tưởng này, ông đã hình dung bức tranh chính xác của hệ mặt trời. Ông sắp xếp chính xác vị trí các hành tinh tính từ Mặt Trời, lần lượt là sao Thủy, sao Kim, Trái Đất, sao Hỏa, sao Mộc, và sao Thổ. Hơn nữa, ông kết luận chính xác rằng hành tinh nào càng gần Mặt Trời thì tốc độ xoay càng lớn. Bằng lý thuyết này ông có thể tính toán đúng quy mô của hệ Mặt Trời, và giải thích được chuyển động phức tạp của các hành tinh, mà không cần dùng đến hệ thống ngoại luân của Ptolemy. Copernicus chưa thể chứng minh được Trái Đất xoay quanh Mặt Trời. Trên thực tế thì thuyết Địa Tâm truyền thống của Ptolemy nếu điều chỉnh một chút thì vẫn có thể giải thích được chuyển động biểu kiến của các hành tinh trên bầu trời. Nhưng Copernicus chỉ ra rằng lý thuyết của Ptolemy quá rối rắm, và càng tính toán càng thêm rối răm, thiếu hẳn sự trật tự và hệ thống của lý thuyết mới. Vào thời Copernicus, rất ít người tin có thể chứng minh cả thuyết Địa Tâm lẫn thuyết Nhật Tâm. Truyền thống triết học có từ thời Hy Lạp cổ đại, được Giáo hội Kitô bảo vệ, khẳng định rằng tư duy thuần túy của con người kết hợp với mặc khải của Thượng Đế đại diện cho con đường của chân lý. Tự nhiên mà giác quan ta cảm nhận thì mông lung. Ví dụ, Aristole lý luận rằng vật nặng hơn sẽ rơi nhanh hơn. Kiểm chứng bằng một thí nghiệm đơn giản chỉ ra rằng khẳng định này hoàn toàn sai. Tuy nhiên, vào thời Copernicus, nhưng thí nghiệm như vậy lại không thuyết phục bằng những gì Aristotle đã nói. Mô hình thuyết Nhật Tâm của Copernicus với Mặt Trời nằm ở trung tâm, và thứ tự các hành tinh. Mô hình này nằm trong tác phẩm De Revolutionibus Orbium Coelestium của ông Trong bầu khí như thế thì người ta không mấy sốt sắng thực hiện những quan sát hoặc thí nghiệm để phân biệt hay kiểm chứng các lý thuyết về vũ trụ hay bất kỳ lý thuyết nào khác. Vậy nên, ý tưởng thuyết Nhật Tâm gây tranh cãi hơn một nửa thế kỷ mà không có ai kiểm chứng tính xác thực của nó cũng là điều bình thường, người ta cãi miệng thôi. Và có một thực tế là thuyết Địa Tâm vẫn còn được dạy tại Đại học Harvard vào những năm 1636. Ngày nay các nhà khoa học luôn khẩn trương kiểm tra các lý thuyết mới, và chỉ khi nào có bằng chứng thực nghiệm thì họ mới chấp nhận. Chẳng hạn, năm 1989 khi hai nhà nghiên cứu tại đại học Utah tuyên bố đã tìm ra cách nấu chảy nguyên tử quá trình tạo năng lượng cho cá vì sao ở nhiệt độ phòng, trong vòng vài tuần giới khoa học ở hơn 25 phòng thí nghiệm khắp nước Mỹ cố gắng nhân bản “phản ứng nguyên tử ở nhiệt độ phòng” nhưng không có kết quả trên thực tế. Lý thuyết nguyên tử lạnh này nhanh chóng bị bác bỏ. Ngày nay chúng ta nhìn nhận mô hình của Copernicus như thế nào? Khi một lý thuyết hoặc giả thuyết mới ra đời, trước tiên nó phải được kiểm nghiệm xem có khớp với những gì đã biết haye không. Ý tưởng nhật tâm của Copernicus đã vượt qua kiểm tra này, vì dựa trên ý tưởng này ta có thể tính toán được vị trí các hành tinh, ít nhất là như trong thuyết địa tâm. Bước tiếp theo là xác định xem các tiên đoán mà lý thuyết mới đưa ra có khác với những ý tưởng cạnh tranh khác không. Trong trường hợp của Copernicus thì ta có thể lấy một ví dụ về sự tiên đoán của nó. Đó là, nếu sao Kim xoay quanh Mặt Trời thì hành tinh này cũng sẽ trải qua đầy đủ các kỳ như Mặt Trăng xoay quanh Trái Đất, tức là có lúc tròn, lúc khuyết, và lúc tối. Nhưng trên thực tế thì không. Nhưng, chúng ta không thể nhìn thấy sao Kim vào ngày “trăng tròn” của nó vì nếu thế thì Mặt Trời phải nằm giữa Trái Đất với Sao Kim thì mới được. Nhưng vào thời Copernicus thì không ai tưởng tượng ra những dự đoán kiểu vậy. Các kỳ tròn khuyết của sao Kim Galileo và khởi đầu của thiên văn học hiện đại Nhiều ý tưởng khoa học hiện đại về quan sát, thí nghiệm, và kiểm tra lý thuyết thông qua các phương pháp định lượng cẩn thận bắt đầu từ một con người sống ngay sau Copernicus, đó là Galileo Galilei, sống cùng thời với Shakespeare, sinh tại Pisa. Cũng như Copernicus, ban đầu ông học y nhưng không hứng thú, về sau chuyển qua toán học. Học từng giữ các vị trái trưởng khoa tại Đại học Pisa và Đại học Padua, và cuối cùng trở thành toán học gia cho Bá tước Tuscany tại Florence. Đóng góp lớn nhất của Galileo là trong lĩnh vực cơ học, nghiên cứu chuyển động và hành động của các lực trên thực thể. Tức là, nếu vật nào đứng yên thì nó sẽ đứng yên mãi mãi, và chỉ chuyển động khi có lực tác động. Đứng yên được coi như trạng thái tự nhiên của vật. Tuy nhiên, Galile cho thấy rằng đứng yên hay chuyển động không phải là sự tự nhiên. Chân dung Galileo. Cùng với phát minh kính viễn vọng và những quan sát thiên văn của mình, ông đã mở đầu cho cuộc cách mạng của thiên văn học hiện đại Nếu một vật thể trượt trên một mặt phẳng lỗi lõm thì nó sớm muộn cũng sẽ đứng yên vì lực ma sát giữa nó và mặt phẳng. Tuy nhiên, nếu mặt phẳng và vật thể đều được mài bóng và trơn thì với một vận tốc ban đầu tương tự vật thể sẽ trượt được xa hơn. Trên một mặt phẳng như tảng băng thì nó còn trượt xa hơn nữa. Galileo lý luận rằng nếu mọi tác động ngăn cản bị loại bỏ thì vật thể sẽ chuyển động mãi mãi. Ông cho rằng cần phải có một lực không chỉ để cho một vật bắt đầu chuyển động, mà còn để giản, ngăn cản, tăng, hoặc thay đổi hướng của một vật thể chuyển động. Galileo cũng nghiên cứu cách mà mọi vật gia tốc, tức thay đổi tốc độ và hướng chuyển động. Galileo quan sát các vật thể rơi tự do và lăn đi trên một con dốc. Ông nhận thấy chúng gia tốc như nhau. Tức là, trong cùng một khoảng thời gian thì tốc độ của các vật thể tăng lên giống nhau. Galileo lập công thức toán học chính xác cho những định luật mới phát hiện này giúp cho các thí nghiệm trong tương lai có thể dự đoán được các vật thể sẽ đi được bao xa và nhanh thế nào khi di chuyển qua các khoảng thời gian khác nhau. Khoảng năm 1590, Galileo áp dụng lý thuyết hệ mặt trời của Copernicus. Lý thuyết này khi ấy vẫn chưa được nước Ý Công giáo chấp nhận, và quyền lực Giáo hội vẫn ủng hộ các ý tưởng của Aristole và Ptolemy. Họ có những lý do mạnh mẽ về kinh tế và chính trị để theo đuổi lý thuyết cho rằng Trái Đất là trung tâm của công trình tạo dựng. Galileo không chỉ thách thức lý thuyết đó, mà còn cả gan viết các công trình của mình bằng tiếng Ý thay vì tiếng La Tinh như trong giới học thuật vẫn làm, nhằm loan truyền rộng rãi trong quần chúng. Đối với ông, tôn giáo và đạo đức mà Giáo hội bảo vệ không xung đột với những vấn đề khoa học tự nhiên. Chính vì những quan điểm “nguy hiểm” ấy mà năm 1616 Giáo hội đã ra một sắc chỉ tuyên bộ lý thuyết của Copernicus là “sai lầm và vô lý”, không được phép bảo vệ hay duy trì. Các quan sát thiên văn của Galileo qua kính viễn vọng Ta không chắc ai là người đầu tiên nghĩ ra cách kết hợp các thấu kích với nhau để tạo thành cái ống nhòm giúp quan sát những vật thể ở xa. Nhưng chiếc ống nhòm đầu tiên gây nhiều sự chú ý được sản xuất năm 1608 bởi Hans Lippershey 1570-1619, một người Hà Lan. Galileo nghe biết về phát minh này, tuy chưa từng nhìn thấy thành phẩm nhưng ông cũng tự mình làm được một cái ống nhòm có khả năng phóng đại gấp 3 lần, thấy được những vật ở xa rõ hơn và lớn hơn. Ngày 25/08/1609, Galileo thử nghiệm một chiếc ống viễn vọng có độ phóng đại x9 trước các quan chức của thành Venice. Đây quả thực là một lợi thế lớn về mặt quân sự khi có thể quan sát đối thủ từ xa. Với phát minh này, tiền lương của Galileo lập tức tăng gấp đôi, và được phong hàm giáo sư trọn đời. Kính thiên văn của Galileo làm bằng gỗ, bọc giấy, thấu kính 26mm Người ta dùng ống nhòm của Galileo để quan sát những gì trên mặt đất, nhưng một tia sáng chợt lóe lên trong đầu nhà khoa học này, làm thay đổi triệt để lịch sử thiên văn. Ông hướng ống kính viễn vọng lên các vì sao. Ông tiếp tục nghiên cứu, chế tạo ra một cái chân đứng, và nâng cấp khả năng phóng đại của ống kính lên x30. Và ông cũng cần thêm một chút tự tin về sản phẩm của mình. Vào thời ấy, mắt người được cho là phản chiếu hình ảnh, màu sắc, kích thước chân thực nhất của vạn vật. Ống kính, gương, hay lăng kính bị cho là làm méo mó hình ảnh sự vật khi phóng lớn, thu nhỏ, hay đảo ngược chúng. Galileo thí nghiệm nhiều lần để tự thuyết phục mình rằng những gì nhìn thấy qua ống viễn vọng là thực, và chính là những gì sẽ nhìn thấy khi tới gần. Chỉ khi đó ông mới bắt đầu sử dụng kính viễn vọng để nhìn lên bầu trời. Quan sát các hành tinh, Galileo phát hiện ra bốn mặt trăng xoay quanh sao Mộc trong khoảng thời gian thay đổi từ 2 đến 17 ngày. Khám phá này đặc biệt quan trọng vì nó cho thấy rằng không phải mọi thứ đều xoay quanh Trái Đất. Hơn thế nữa, nó chứng minh rằng có những thứ vừa là trung tâm của chuyển động, vừa chính nó chuyển động. Những người bảo vệ thuyết địa tâm nói rằng nếu Trái Đất chuyển động, thì Mặt Trăng phải bị bỏ lại phía sau, vì nó khó mà theo kịp tốc độ chuyển động của một hành tinh. Nhưng, bằng chứng sao Mộc đã cho thấy rõ điều đó hoàn toàn có thể xảy ra. Với ống viễn vọng, Galileo có thể kiểm chứng lý thuyết của Copernicus, dựa trên các kỳ chuyển động của sao Kim. Trong vòng một vài tháng, ông khám phá ra rằng sao Kim cũng có các kỳ tròn khuyết như Mặt Trăng, chứng minh rằng nó nhất định phải xoay quanh Mặt Trời, nên chúng ta mới thấy bề mặt được chiếu sáng của nó thay đổi theo thời gian. Các quan sát này đã đánh đổ mô hình của Ptolemy, vốn cho rằng sao Kim xoay quanh Trái Đất. Trong mô hình của Ptolemy, sao Kim cũng có các kỳ tròn khuyết, nhưng chúng sai so với những gì mà Galileo quan sát được trên thực tế. Galileo cũng quan sát Mặt Trăng và thấy các miệng núi lửa, các dãy núi, thung lũng, các vùng tối, phẳng mà ông nghĩ có thể là nước. Những khám phá này chứng minh rằng Mặt Trăng có thể không khác biệt gì lắm với Trái Đất, và Trái Đất có thể cũng chỉ là một thiên thể như bao thiên thể khác. Sau công trình của Galileo, lý thuyết của Copernicus càng khó đánh đổ, và Trái Đất dần dần bị truất ngôi vị trí trung tâm của vũ trụ, và trở về đúng vị trí của nó là một trong các hành tinh trong hệ Mặt Trời. Tuy nhiên, rốt cuộc thì Galileo gặp phải sự phản đối dữ dội. Giáo hội Công giáo, vẫn còn đang chao đảo bởi phong trào Kháng Cách, tìm cách khẳng định quyền lực của mình, và chọn Galileo xử làm gương. Ông phải ra trước Tòa án Dị giáo để trả lời các cáo buộc về công trình của mình, cuối cùng ông bị kết án cầm cố tại gia. Sách vở của ông bị cấm cho tới năm 1836, tuy trong những nước ít chịu ảnh hưởng của Công giáo thì người ta vẫn đọc và thảo luận rộng rãi. Cho đến 1992 thì giáo hội Công giáo mới công khai chấp nhận họ đã sai trong việc ngăn cấm những ý tưởng của Galileo. Các ý tưởng mới của Copernicus và Galileo đã khởi đầu cuộc cách mạng nhận thức của chúng ta về vũ trụ. Cuối cùng ta đã biết chắc chắn rằng vũ trị là một vùng không gian rộng lớn, và vai trò của Trái Đất không quan trọng như ta tưởng. Trái Đất xoay quanh Mặt Trời như bao hành tinh khác, và khám phá này dẫn tới một kết luận hiển nhiên rằng các hành tinh khác cũng là một thế giới như chúng ta, có khi còn có sự sống. Vũ trụ, bất kể chúng ta có mong muốn thế nào, không xoay quanh chúng ta như trước giờ vẫn tưởng. Nối tiếp Galileo và Copernicus là Brahe với kho dữ liệu quan sát thiên văn khổng lồ, và Kepler, dựa trên kho dữ liệu ấy, đã khám phá ra ba định luật Kepler nổi tiếng mô tả chuyển động của các hành tinh. Và tất cả hoàn thiện nơi Newton. Mời các bạn tiếp tục đọc các bài viết tiếp theo để theo dõi quá trình phát triển của thiên văn học hiện đại. Thiên văn học là gì? Thiên văn học nghiên cứu đối tượng nào? Nội dung nghiên cứu thiên văn học? Phương pháp nghiên cứu thiên văn học? Mối liên hệ của thiên văn với các môn khoa học khác?Loài người xuất hiện và từ lâu đã hướng mắt lên bầu trời, con người vẫn luôn tìm cách thiết đặt ý nghĩa và trật tự cho vũ trụ xung quanh mình. Mặc dù chuyển động của các chòm sao là dễ theo dõi nhất, nhưng những sự kiện thiên thể khác như nhật nguyệt thực và chuyển động của các hành tinh cũng đã được ghi chép và dự đoán. Thiên văn học là một vấn đề luôn được quan tâm từ khi con người xuất hiện cho đến nay. Vậy, thiên văn học là gì? Đối tượng, nội dung và phương pháp của nó ra sao? Tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại Mục lục bài viết 1 1. Thiên văn học là gì? 2 2. Đối tượng, nội dung nghiên cứu thiên văn học 3 3. Phương pháp nghiên cứu thiên văn học 4 4. Mối liên hệ của thiên văn với các môn khoa học khác Ta hiểu về thiên văn học như sau Thiên văn học được hiểu cơ bản chính là hoạt động nghiên cứu mặt trời, mặt trăng, các sao, các hành tinh, sao chổi, các thiên hà, chất khí, bụi và các vật thể và hiện tượng khác ngoài Trái đất. Cũng có thể định nghĩa thiên văn học đơn giản là “nghiên cứu các sao, các hành tinh và không gian.” Thiên văn học và chiêm tinh học gắn liền với nhau về mặt lịch sử, nhưng chiêm tinh học không phải là khoa học và không còn được xem là có dính líu với thiên văn học. Sự phát triển của thiên văn học Các chủ thể là những nhà thiên văn học của những nền văn minh đầu tiên đã tiến hành những cuộc quan sát có phương pháp bầu trời đêm, và các dụng cụ thiên văn học đã được tìm thấy từ những giai đoạn còn sớm hơn nữa. Tuy nhiên, sự xuất hiện của kính viễn vọng là thời điểm thiên văn học bắt đầu bước vào giai đoạn khoa học hiện đại. Về lịch sử, thiên văn học từng gồm cả các ngành đo sao, hoa tiêu thiên văn, quan sát thiên văn, làm lịch, và thậm chí cả chiêm tinh học, nhưng ngành thiên văn học chuyên môn hiện đại ngày nay thường chỉ có nghĩa vật lý học thiên thể. Từ thế kỷ XX, lĩnh vực thiên văn học chuyên nghiệp được chia thành các nhánh quan sát và thực nghiệm. Thiên văn học quan sát chú trọng tới việc thu thập và phân tích dữ liệu, sử dụng các nguyên tắc cơ bản của vật lý. Thiên văn học lý thuyết định hướng theo sự phát triển các mô hình máy tính hay mô hình phân tích để miêu tả các vật thể và hiện tượng thiên văn. Hai lĩnh vực bổ sung cho nhau, thiên văn học lý thuyết tìm cách giải thích các kết quả quan sát, và việc quan sát lại thường được dùng để xác nhận các kết quả lý thuyết. Các nhà thiên văn nghiệp dư cũng đã đóng góp nhiều khám phá quan trọng cho thiên văn học, và thiên văn học là một trong số ít ngành khoa học nơi các nhà thiên văn nghiệp dư có thể đóng vai trò quan trọng, đặc biệt trong sự phát hiện và quan sát các hiện tượng thoáng qua. Thiên văn học cổ hay thậm chí thiên văn học cổ đại không nên bị nhầm lẫn với ngành chiêm tinh học, hệ thống niềm tin rằng những công việc của con người liên quan tới các vị trí của các vật thể vũ trụ. Dù hai lĩnh vực này trên thực tế cùng có nguồn gốc chung và một phần phương pháp thực hiện cụ thể, việc sử dụng lịch thiên văn, chúng là khác biệt. Thiên văn học trong tiếng Anh là astronomy. 2. Đối tượng, nội dung nghiên cứu thiên văn học Nội dung nghiên cứu của thiên văn học sẽ có thể chia làm 3 phần chính đó là – Về quy luật chuyển động của các thiên thể trong mối quan hệ giữa Trái đất và bầu trời. – Về cấu trúc và bản chất vật lý của các thiên thể và các quá trình xảy ra trong vũ trụ. – Về nguồn gốc hình thành và phát triển của các thiên thể, của hệ thống của chúng và của vũ trụ. Việc thực hiện phân chia các nội dung này rất trùng khớp với lịch sử phát triển của môn thiên văn học. Sự phức tạp của nội dung tăng dần cùng với sự phát triển của môn học. Đối tượng nghiên cứu của thiên văn cũng được xác định ngày càng rộng ra và phức tạp hơn. Từ thiên thể khá là chung chung, chỉ các vật trên bầu trời, được mở rộng ra, cụ thể hơn, đa dạng hơn. Từ mặt trời, mặt trăng, các hành tinh, các thiên thạch… đến các vệ tinh nhân tạo, các sao, bụi sao Tinh vân các quần sao, các thiên hà. Càng ngày người ta càng phát hiện ra nhiều vật thể lạ có những vật được tiên đoán trước bằng lý thuyết như sao nơ trôn pun xa, các quaza, các lỗ đen Như vậy, qua phân tích nêu trên, ta thấy thiên văn không phải thuần túy là môn khí tượng học hay môn chiêm tinh như người ta thường nhầm. 3. Phương pháp nghiên cứu thiên văn học Bởi vì đối tượng nghiên cứu là những vật thể rất to lớn và ở trong vũ trụ xa xôi trừ Trái đất nên phương pháp nghiên cứu của thiên văn cũng rất đặc biệt, thậm chí không giống bất kỳ một môn khoa học nào. Phương pháp chủ yếu của thiên văn cổ điển là quan sát và quan trắc. Người ta không thể làm thí nghiệm với các thiên thể tức không thể bắt chúng tuân theo những điều kiện mà ta tạo ra, cũng không thể trực tiếp “sờ mó” được chúng. Nguồn thông tin chủ yếu là ánh sáng từ các thiên thể. Bởi vì ảnh hưởng của khí quyển, do chuyển động của Trái đất và do chính tính chủ quan của việc quan sát làm cho kết quả nghiên cứu có thể bị hạn chế, thậm chí dẫn đến những kết luận sai lầm. Một khó khăn nữa phải kể đến của việc quan sát là các hiện tượng thiên văn xảy ra trong một thời gian rất dài so với đời sống ngắn ngủi của con người và đôi khi không lặp lại. Tuy vậy, khi khoa học càng phát triển thì việc nghiên cứu thiên văn càng trở nên dễ dàng hơn. Nguồn thông tin chính được gửi đến trái đất là bức xạ điện từ được khai thác triệt để ở cả hai vùng khả kiến và vô tuyến đã giúp cho sự hiểu biết về vũ trụ được phong phú hơn. Bên cạnh đó thì cùng với sự phát triển của ngành du hành vũ trụ cũng là một thành tựu của thiên văn con người đã bước ra khỏi sự ràng buộc, hạn chế của Trái đất để có được những thông tin khách quan hơn về vũ trụ. Việc xử lý thông tin bằng kỹ thuật tin học đã giúp thiên văn phát triển vượt bậc. Khác hẳn với thiên văn cổ điển là kiên trì thu thập số liệu quan trắc và suy luận để tìm ra qui luật, thiên văn hiện đại sử dụng phương pháp mô hình hóa, đề ra những thuyết có tính chất dẫn đường và việc quan sát thiên văn là tìm kiếm những bằng chứng để kiểm định sự đúng đắn của lý thuyết. Nhìn chung, ta nhận thấy rằng, phương pháp nghiên cứu khoa học của thiên văn cũng nằm trong khuôn khổ những phương pháp luận khoa học nói chung, nó luôn phát triển và sẽ còn được hoàn thiện mãi. 4. Mối liên hệ của thiên văn với các môn khoa học khác Như các phân tích cụ thể bên trên, ta nhận thấy, thiên văn học có liên hệ với rất nhiều ngành khoa học. Thiên văn họ vốn là một môn khoa học xuất hiện rất sớm, ngay từ trong các nền văn minh cổ, thiên văn là nội dung chính của các cuộc đàm đạo của các nhà thông thái. Sau này, khi khoa học đã có sự phân hóa rõ rệt, thiên văn là môn khoa học góp phần đắc lực nhất vào việc trả lời những câu hỏi lớn của triết học. Mối quan hệ của thiên văn với vật lý là quá rõ ràng. Trong quá trình học thiên văn ta sẽ thấy rõ điều này. Các định luật vật lý được ứng dụng trong thiên văn, đem lại phương tiện để giải quyết những vấn đề của thiên văn. Nhưng đồng thời chính thiên văn thường dẫn đường và nêu ra những ý tưởng mới cho vật lý. Công cụ tính toán của thiên văn chínhlà toán học, nhất là phần thiên văn tính toán. Rất nhiều chủ thể là những nhà thiên văn đồng thời là các nhà toán học. Trước kia môn thiên văn cũng thường được dạy trong khoa toán. Trong quá trình tìm hiểu cấu tạo của các thiên thể ta không thể không biết đến hóa học. Ngày nay trong thiên văn có riêng ngành hóa học thiên văn. Sinh vật học cũng tìm được cách lý giải rất nhiều vấn đề của mình nhờ thiên văn. Đặc biệt trong sinh học, mối quan hệ Thiên – Địa – Nhân ngày càng được chú ý. Để nhằm mục đích có thể hiểu rõ bản chất nguồn gốc và sự tiến hóa của sự sống không thể không biết gì về thiên văn. Đối với địa lý môn thiên văn chính là người anh em. Đối tượng nghiên cứu của địa lý tự nhiên là Trái đất, một thành viên của hệ Mặt trời. Không thể hiểu rõ được Trái đất nếu không nắm được mối quan hệ của nó với các thành viên trong hệ nói riêng và trong toàn vũ trụ nói chung. Ngay cả môn lịch sử, vốn là môn khoa học xã hội tưởng như xa lạ với thiên văn, nhưng để các chủ thể có thể xác định chính xác các sự kiện trong lịch sử phải biết cách tính thời gian trong thiên văn. Nhiều công trình cổ của các nền văn minh lớn của loài người đều ghi lại các kiến thức thiên văn thời đó. Vũ trụ được đánh giá chính là một phòng thí nghiệm thiên nhiên vô cùng vĩ đại cho tất cả các ngành khoa học. Chính thiên văn kích thích các ngành kỹ thuật khác phát triển theo. Tầm quan trọng của việc nghiên cứu và giảng dạy thiên văn là rất rõ ràng. Đó không chỉ là vấn đề học thuật, mà còn là vấn đề quan trọng để xây dựng nhân sinh quan, thế giới quan đúng đắn cho con người. Nguồn Historic figures, BBC Biên dịch Trần Mẫn Linh Galileo Galilei 1564 – 1642 là một nhà thiên văn học, nhà vật lý và triết gia người Ý có sức ảnh hưởng lớn. Galileo Galilei sinh ngày 15/02/1564 gần Pisa và là con của một nhạc sĩ. Ban đầu, ông theo học ngành y tại Đại học Pisa nhưng sau đó đã đổi sang triết học và toán học. Năm 1589, Galileo trở thành giáo sư toán học tại Pisa, nhưng tới năm 1592, ông đã chuyển sang làm giáo sư toán tại Đại học Padua và giữ vị trí này cho đến năm 1610. Trong thời gian này, ông đã thực hiện nhiều thí nghiệm, bao gồm thí nghiệm về tốc độ rơi của các vật thể khác nhau, cơ học và con lắc. Năm 1609, Galileo đã nghe về phát minh kính viễn vọng ở Hà Lan. Mặc dù không được nhìn thấy bản mẫu, song ông đã phát triển một phiên bản ưu việt và thực hiện nhiều khám phá thiên văn. Đó là khám phá về những dãy núi và thung lũng trên bề mặt của mặt trăng, các vết đen mặt trời, bốn mặt trăng lớn nhất của sao Mộc và các pha của sao Kim. Thành tựu của ông về thiên văn học đã khiến Galileo trở nên nổi tiếng và được bổ nhiệm làm nhà toán học của triều đình ở Florence. Năm 1614, Galileo bị buộc tội dị giáo vì ủng hộ thuyết nhật tâm của Copernicus. Điều này mang tính cách mạng vào thời điểm đó khi hầu hết mọi người tin rằng Trái đất mới nằm ở trung tâm hệ mặt trời. Năm 1616, ông bị nhà thờ cấm giảng dạy hoặc tuyên truyền thuyết này. Năm 1632, ông bị kết tội dị giáo một lần nữa sau khi cuốn sách Dialogue Concerning the Two Chief World Systems’ Đối thoại về hai hệ thống thế giới chính được xuất bản. Cuốn sách đã đưa ra các lập luận ủng hộ và phản đối lý thuyết của Copernicus dưới hình thức một cuộc thảo luận giữa hai người. Galileo đã bị triệu tập đến Tòa án Rome. Ông bị kết tội và nhận án tù chung thân, sau đó được giảm xuống quản thúc vĩnh viễn tại gia ở biệt thự của ông tại Arcetri, phía nam Florence. Bên cạnh đó, ông cũng bị buộc phải công khai rút lại sự ủng hộ của mình đối với thuyết nhật tâm của Copernicus. Mặc dù lúc đó sắp bị mù song Galileo vẫn tiếp tục viết. Năm 1638, cuốn sách Discourses Concerning Two New Sciences’ Những thuyết trình về hai ngành khoa học mới đã được xuất bản, trong đó trình bày những ý tưởng của ông về các định luật chuyển động và các nguyên lý cơ học. Ngày 08/01/1642, Galileo qua đời tại Arcetri. 13/02/1633 Galileo tới Rome, đối mặt Tòa án dị giáo

thành tựu của thiên văn học